Viêm da cơ địa là gì? Các công bố khoa học về Viêm da cơ địa

Viêm da cơ địa là một tình trạng da mà da trở nên dễ bị kích ứng, mẩn đỏ, ngứa hoặc nhạy cảm hơn so với người khác. Nguyên nhân của viêm da cơ địa vẫn chưa được...

Viêm da cơ địa là một tình trạng da mà da trở nên dễ bị kích ứng, mẩn đỏ, ngứa hoặc nhạy cảm hơn so với người khác. Nguyên nhân của viêm da cơ địa vẫn chưa được rõ ràng, tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng vai trò trong việc phát triển tình trạng này. Các yếu tố khác bao gồm sự phụ thuộc vào hormon, stress, thay đổi thời tiết và sử dụng các sản phẩm da có chứa hóa chất gây kích ứng. Viêm da cơ địa có thể được điều trị bằng các loại thuốc chống viêm, kem dưỡng da và tránh sử dụng các chất gây kích ứng như mỹ phẩm có hương liệu mạnh.
Viêm da cơ địa (hay còn gọi là da nhạy cảm) là một tình trạng da mà da trở nên dễ bị kích ứng, mẩn đỏ, sưng, ngứa hoặc nhạy cảm hơn so với da bình thường. Nguyên nhân chính của viêm da cơ địa vẫn chưa được rõ ràng, nhưng có một số yếu tố có thể đóng vai trò quan trọng. Dưới đây là một số yếu tố có thể gây ra viêm da cơ địa:

1. Yếu tố di truyền: Nếu trong gia đình bạn có người mắc viêm da cơ địa, thì khả năng bạn cũng sẽ bị dị ứng da cao hơn.

2. Môi trường: Tiếp xúc với các chất gây kích ứng như hóa chất trong mỹ phẩm, thuốc nhuộm, hóa chất trong nước, khoảng không khí ô nhiễm,... cũng có thể làm cho da trở nên nhạy cảm và dễ bị viêm đỏ.

3. Yếu tố hormone: Sự thay đổi cấu trúc hormone, như trong thời kỳ kinh nguyệt, thai kỳ, tiền mãn kinh hoặc tiền phụ khoa, có thể làm cho da trở nên nhạy cảm hơn và dễ bị kích ứng.

4. Stress: Căng thẳng, căng thẳng tâm lý có thể làm tăng nguy cơ mắc viêm da cơ địa hoặc làm tình trạng da trở nên xấu hơn.

5. Thay đổi thời tiết: Da có thể trở nên nhạy cảm hơn khi điều kiện thời tiết đột ngột thay đổi, như nhiệt độ cao, khí hậu khô, gió mạnh, ánh nắng mặt trời mạnh,...

6. Sử dụng các sản phẩm da có chứa chất kích ứng: Mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc da, chất tẩy rửa có chứa hợp chất hóa học mạnh cũng có thể gây kích ứng và gây viêm da.

Để giảm tình trạng viêm da cơ địa, có thể thực hiện các biện pháp sau đây:

1. Chăm sóc da đúng cách: Sử dụng sản phẩm dịu nhẹ, không chứa hóa chất gây kích ứng. Chọn các sản phẩm làm sạch da không chứa hương liệu mạnh. Rửa mặt nhẹ nhàng, không dùng nước quá nóng. Sử dụng kem dưỡng ẩm để duy trì độ ẩm cho da.

2. Tránh tiếp xúc với các chất gây kích ứng: Tránh sử dụng các loại mỹ phẩm, thuốc nhuộm, chất tẩy rửa có chứa hợp chất hóa học mạnh.

3. Tránh các tác nhân gây kích ứng khác: Tránh tiếp xúc với hóa chất, ô nhiễm môi trường, ánh nắng mặt trời, gió mạnh...

4. Điều chỉnh lối sống: Tránh căng thẳng, cân nhắc sử dụng hormone, chú ý đến chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh.

5. Tìm hiểu về các sản phẩm: Tham khảo ý kiến ​​của chuyên gia và tìm hiểu về thành phần của các sản phẩm trước khi sử dụng.

Nếu tình trạng viêm da cơ địa trở nên nghiêm trọng hoặc không thể kiểm soát được bằng các biện pháp tự chăm sóc da, nên tìm kiếm sự tư vấn từ bác sĩ da liễu. Bác sĩ sẽ đưa ra chẩn đoán chính xác và chỉ định phác đồ điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm da cơ địa":

Chỉ số phạm vi và mức độ nghiêm trọng của eczema (EASI): Đánh giá độ tin cậy trong bệnh viêm da cơ địa Dịch bởi AI
Experimental Dermatology - Tập 10 Số 1 - Trang 11-18 - 2001

Tóm tắt: Mục tiêu– Để kiểm tra độ tin cậy của hệ thống chấm điểm chỉ số phạm vi và mức độ nghiêm trọng của eczema (EASI) bằng cách đánh giá tính nhất quán giữa và trong các người đánh giá. Thiết kế: Đào tạo các người đánh giá, áp dụng và đánh giá trong 2 ngày liên tiếp. Địa điểm– Một trung tâm học thuật. Bệnh nhân– Hai mươi người lớn và trẻ em mắc bệnh viêm da cơ địa (AD); nhóm 1 (10 bệnh nhân ≥8 tuổi) và nhóm 2 (10 bệnh nhân <8 tuổi). Can thiệp– Không có. Biện pháp kết quả chính– EASI được 15 người đánh giá da liễu sử dụng để đánh giá bệnh viêm da cơ địa ở nhóm 1 và nhóm 2 trong 2 ngày liên tiếp. Độ tin cậy giữa và trong các người đánh giá đã được phân tích. Kết quả– Độ tin cậy tổng thể giữa các người đánh giá về EASI ở mức trung bình đến tốt. Phân tích độ tin cậy giữa các người đánh giá cho thấy các người đánh giá đã đánh giá bệnh nhân một cách nhất quán trong cả hai ngày nghiên cứu. Kết luận– Nghiên cứu này đã chứng minh rằng EASI có thể được học nhanh chóng và sử dụng một cách tin cậy trong việc đánh giá mức độ nghiêm trọng và phạm vi của AD. Có tính nhất quán giữa các người đánh giá giữa các ngày đánh giá liên tiếp. Những kết quả này hỗ trợ việc sử dụng EASI trong các thử nghiệm lâm sàng về các tác nhân điều trị cho AD.

Tự Thực Bào Tồn Tại So Với Tự Thực Bào Phân Giải: Sự Tiết Ra Không Chính Thống của Các Chất Trung Gian Viêm Dịch bởi AI
Journal of Innate Immunity - Tập 5 Số 5 - Trang 471-479 - 2013

Tự thực bào (macroautophagy) thường được định nghĩa là một quá trình phân giải và là một chi nhánh của con đường lysosomal. Trong ngữ cảnh này, tự thực bào thực hiện chức năng kiểm soát chất lượng chất nguyên sinh và dinh dưỡng bằng cách loại bỏ các bào quan không còn hoạt động hoặc không được sử dụng, các mục tiêu dạng hạt và vi khuẩn xâm nhập, cũng như qua quá trình tiêu hóa khối lượng chất nguyên sinh. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng tự thực bào một cách bất ngờ ảnh hưởng đến nhiều con đường tiết ra khác nhau. Tự thực bào tham gia vào việc vận chuyển ra ngoài tế bào một số lượng lớn các protein chất nguyên sinh không đi vào con đường tiết ra thông thường qua bộ máy Golgi mà thay vào đó được tiết ra một cách không chính thống trực tiếp từ chất nguyên sinh. Ở tế bào động vật có vú, một ví dụ điển hình của sự thể hiện này của tự thực bào là sự tiết ra không chính thống của một cytokine pro-inflammatory chính, IL-1β. Bài tổng quan này xem xét khái niệm tự thực bào tiết ra và so sánh, đối chiếu vai trò của tự thực bào trong sự tiết ra của IL-1α và IL-1β. Mặc dù IL-1α và IL-1β có các chức năng viêm bên ngoài liên quan chặt chẽ, nhưng chúng khác nhau về sự kích hoạt trong tế bào, cơ chế tiết ra và cách chúng bị ảnh hưởng bởi tự thực bào. Ví dụ này chỉ ra rằng vai trò của tự thực bào trong tiết ra phức tạp hơn, ít nhất là ở các tế bào động vật có vú, so với quan điểm đơn giản cho rằng các autophagosome cung cấp các phương tiện cho việc tiết ra không chính thống của các protein chất nguyên sinh.

NỒNG ĐỘ IGE HUYẾT THANH TOÀN PHẦN VÀ ĐẶC HIỆU TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM DA CƠ ĐỊA TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Mở đầu: Viêm da cơ địa là một bệnh da phổ biến ở trẻ em cũng như ở người lớn, với đặc điểm quan trọng là hay tái phát. Các rối loạn miễn dịch cụ thể là nồng độ IgE huyết thanh có liên quan đến nguy cơ dị ứng trên các bệnh nhân viêm da cơ địa. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tăng nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa; mô tả mối liên quan giữa tỷ lệ tăng nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu với đặc điểm lâm sàng trên bệnh nhân viêm da cơ địa. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 50 bệnh nhân được chẩn đoán viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Cần Thơ. Kết quả: Tỷ lệ tăng IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu lần lượt là 54% và 84%. Có mối tương quan thuận chặt giữa nồng độ trung bình của IgE huyết thanh toàn phần và điểm số SCORing Atopic Dermatitis (SCORAD).  Kết luận: IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu là xét nghiệm hữu ích để chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng của bệnh viêm da cơ địa. Thời gian nhận bài: 20/09/2022Ngày phản biện: 19/10/2022Ngày được chấp nhận: 25/10/2022
#viêm da cơ địa #nồng độ IgE toàn phần #nồng độ IgE đặc hiệu #SCORAD #đặc điểm lâm sàng
NHẬN XÉT HÌNH ẢNH NỘI SOI VÀ ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC VIÊM DẠ DÀY MẠN TÍNH NHIỄM HELYCOBACTER PYLORI Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả hình ảnh nội soi và đặc điểm mô bệnh học viêm dạ dày mạn tính có nhiễm H. pylori ở trẻ em. Phương pháp: Mô tả cắt ngang trên toàn bộ trẻ em từ 3 đến 15 tuổi, đến khám và điều trị tại khoa Khám bệnh, khoa Tiêu hóa – Huyết học bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Kết quả: Tổng 31 trẻ được đưa vào nghiên cứu. Hình ảnh nội soi chủ yếu là viêm dạ dày xung huyết (23/31) với vị trí tổn thương chủ yếu ở toàn bộ niêm mạc (51,7%) và hang vị (32,2%). Mức độ viêm chủ yếu là mức độ vừa (54,8%) và đa số là viêm hoạt động mức độ vừa (38,7%). Mức độ nhiễm H. pylori mức độ vừa chiếm tỉ lệ cao nhất (45,1%). Nhiễm H. pylori càng nặng, mức độ viêm càng nặng, mức độ hoạt động càng mạnh.  Kết luận: Cần đẩy mạnh thực hiện xét nghiệm mô bệnh học ở những bệnh nhân loét dạ dày tá tràng, đau bụng mạn tính, tiến tới thực hiện thường quy ở tất cả các bệnh nhân có chỉ định.
#Mô bệnh học #Viêm dạ dày mạn tính #Helycobacter Pylori
KÊT QUẢ CHẨN ĐOÁN TỔN THƯƠNG UNG THƯ DẠ DÀY SỚM QUA NỘI SOI CÓ ĐỐI CHIỀU MÔ BỆNH HỌC TẠI THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán ung thư dạ dày sớm có đối chiếu mô bệnh học tại Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả, tiến cứu trên bệnh nhân được chẩn đoán ung thư dạ dày sớm qua nội soi và đối chiếu kết quả mô bệnh học sinh thiết trước điều trị và sau điều trị. Kết quả: 26 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư dạ dày sớm qua nội soi bao gồm 18 nam (69,2%) và 8 nữ (20,8%). Đa phần số bệnh nhân có tiền sử viêm dạ dày mạn tính do Hp (80,7%). 96,1% số bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao trên nền niêm mạc nền, 84,6% dựa trên dấu hiệu màu sắc niêm mạc bất thường, 88,5% bề mặt bất thường, 69,2% đường bờ không đều. Vị trí hay gặp nhất là tại hang vị 57,7% và đa phần là kích thước < 2cm (84,6%). Theo phân loại Nhật Bản, typ hay gập nhất là typ lõm (0-IIc) chiếm tỉ lệ 42,3%. Kết luận: Có thể chẩn đoán ung thư dạ dày sớm qua nội soi với độ chính xác cao và cần đối, phối hợp chặt chẽ với mô bệnh học trước và sau can thiệp đê có chiến lược theo dõi lâu dài cho bệnh nhân. 
#Ung thư dạ dày sớm #Viêm dạ dày mạn #Helicobacter Pylori
Thực trạng sợ corticosteroid bôi ở bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bệnh nhân sợ corticosteroid bôi theo thang điểm TOPICOP. Xác định mối liên quan giữa điểm phần trăm TOPICOP với một số đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân viêm da cơ địa. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 267 bệnh nhân viêm da cơ địa tại bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2020 - 07/2021. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân viêm da cơ địa sợ corticosteroid bôi trong nghiên cứu chúng tôi chiếm 45,8%. Điểm trung vị TOPICOP tổng cộng theo nghiên cứu của chúng tôi là 50% (36,1% - 61,1%); theo phân nhóm kiến thức là 38,9% (22,2% - 50%); nỗi sợ là 66,7% (44,4% - 88,9%) và hành vi là 55,6% (44,4% - 66,7%). Trong phân tích đa biến, không ghi nhận mối tương quan giữa điểm TOPICOP toàn bộ với giới (p=0,34), tuổi khởi phát bệnh (p=0,21), giai đoạn bệnh (p=0,36), độ nặng bệnh (p=0,09). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm TOPICOP toàn bộ với độ tuổi (p=0,02). Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân viêm da cơ địa sợ corticosteroid bôi tương đối cao. Vì vậy cần có chương trình giáo dục sức khỏe dành cho các bệnh nhân viêm da cơ địa để giảm bớt tình trạng sợ corticosteroid bôi.
#Viêm da cơ địa #điểm TOPICOP
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI SAU NHIỄM COVID – 19 Ở TRẺ EM TẠI TRUNG TÂM NHI KHOA BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
TNU Journal of Science and Technology - Tập 228 Số 13 - Trang 11-18 - 2023
Covid-19 và tình trạng hậu Covid-19 ở trẻ em hiện đang là một vấn đề sức khoẻ cần tiếp tục nghiên cứu. Tổn thương cơ quan thường gặp nhất do Covid-19 gây ra là phổi. Chúng tôi thiết kế một nghiên cứu cắt ngang, nhằm mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị viêm phổi ở trẻ sau nhiễm Covid-19 trong thời gian 3 tháng tại Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022. Nghiên cứu trên 103 trẻ đủ tiêu chuẩn cho kết quả nhóm trẻ từ 1-5 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là 72,8%, tỷ lệ nam/nữ = 1,5/1. Triệu chứng lâm sàng chủ yếu của bệnh viêm phổi sau nhiễm Covid-19 là ho (98,1%), khò khè (96,1%), ran ở phổi (95,1%), sốt (66,0%); ngoài ra các triệu chứng ngoài cơ quan hô hấp cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể, như: biếng ăn (79,6%), rối loạn giấc ngủ (51,5%), thiếu máu (20%), tiêu chảy (12,6%). Tình trạng dinh dưỡng bao gồm cả suy dinh dưỡng và thừa cân/béo phì đều làm tăng mức độ viêm phổi nặng và tổn thương hình ảnh trên phim Xquang ngực, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05. Việc sử dụng kháng sinh trước khi đến viện cho thấy không làm giảm mức độ viêm phổi nặng cũng như tình trạng phải sử dụng nhiều liệu trình điều trị tại bệnh viện.
#Viêm phổi #Covid-19 #Hậu Covid-19 #Trẻ em #Thái Nguyên
Tình hình nhiễm Chlamydia trachomatis ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng năm 2018 - 2019
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 2 - Trang 57-62 - 2020
Mở đầu: Các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, trong đó có nhiễm Chlamydia trachomatis với tỷ lệ mắc tăng dần, đang trở thành một gánh nặng bệnh tật và tử vong quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống cũng như sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản của phụ nữ và sức khỏe trẻ sơ sinh. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan với tỷ lệ nhiễm Chlamydia trachomatis ở bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang các phụ nữ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng (tháng 10/2018 đến tháng 6/2019) đồng ý tham gia nghiên cứu. Tất cả bệnh nhân được phỏng vấn theo bảng câu hỏi xác định các đặc điểm kinh tế - xã hội và các đặc điểm lâm sàng. Tiến hành thăm khám lâm sàng và chẩn đoán nhiễm C.trachomatis bằng kỹ thuật ELISA tìm kháng thể IgM và IgG trong mẫu huyết thanh. Phép kiểm chi-bình phương và phân tích hồi quy đa biến được sử dụng để tìm các yếu tố liên quan đến nhiễm C.trachomatis. Kết quả: Có 600 phụ nữ tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis là 15,6%, trong đó kháng thể IgG dương tính là 70,5%, kháng thể IgM dương tính là 41,6%, 12,1% dương tính với cả hai kháng thể IgM và IgG. Có 49,3% số bệnh nhân có từ ba triệu chứng cơ năng. Các biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng thường gặp nhất là dịch tiết âm đạo bất thường (88,5%) (50,7% dịch tiết lượng vừa, 34,8% dịch trắng kem, 25,4% dịch tiết có mùi hôi), viêm âm đạo (75,0%), viêm cổ tử cung (65,4%), đồng nhiễm Candida (14,7%). Nguy cơ nhiễm C.trachomatis liên quan đến các yếu tố lao động tay chân (OR = 2,1, 95%CI 1,4 – 3,2, p = 0,0004), quan hệ tình dục đầu tiên < 18 tuổi (OR = 1,9, 95%CI 1,2 – 2,7, p = 0,0023), đau bụng dưới đau vùng chậu (OR = 2,1, 95%CI 1,4 – 3,4, p = 0,0007), viêm âm đạo (OR = 2,0, 95%CI 1,2 – 3,2, p = 0,0076), viêm cổ tử cung (OR = 2,2, 95%CI 1,5 – 3,3, p = 0,0001). Kết luận: Nhiễm Chlamydia trachomatis chiếm tỷ lệ cao ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đến khám tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Qua các yếu tố liên quan đã được khảo sát, các nhà lâm sàng cần lưu ý những bệnh nhân nguy cơ cao để tăng độ nhạy trong tư vấn sàng lọc bệnh, tăng khả năng phát hiện và chẩn đoán kịp thời trước khi có các biến chứng sinh sản do Chlamydia trachomatis.
#Chlamydia trachomatis #ELISA #nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục #tuổi quan hệ tình dục đầu tiên #dịch tiết âm đạo bất thường #viêm âm đạo #viêm cổ tử cung
HIỆU QUẢ LÂM SÀNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CẤY CHỈ TRONG HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM DA CƠ ĐỊA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Đặt vấn đề: Viêm da cơ địa (AD) là tình trạng viêm da mãn tính, không thể chữa khỏi hoàn toàn. Sử dụng thuốc lâu dài hoặc không đúng cách có thể dẫn đến các biến chứng khác. Các phương pháp điều trị thay thế cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân (BN). Cấy chỉ được phát triển từ châm cứu với ưu điểm thời gian kích thích huyệt lâu, số lần điều trị ít, chu kỳ điều trị ngắn, an toàn, hiệu quả, giúp giảm chi phí điều trị. Nhiều nghiên cứu đã xác định tính an toàn của cấy chỉ trong điều trị các bệnh lý da liễu, nhưng hiệu quả của nó với AD vẫn đang được khám phá. Tổng quan này sẽ thảo luận về tác dụng lâm sàng của phương pháp cấy chỉ trong hỗ trợ điều trị AD. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp cấy chỉ trong hỗ trợ điều trị AD. Đối tượng và phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, từ tháng 09/2021 đến tháng 05/2022 trên 92 người tham gia (28 nam, 64 nữ) từ 18 tuổi trở lên có AD từ nhẹ - trung bình. Nhóm nghiên cứu điều trị kết hợp cấy chỉ 2 tuần/lần và dùng bài thuốc Tiêu phong tán hàng ngày. Nhóm chứng dùng bài Tiêu phong tán hàng ngày. Kết quả chính là những thay đổi trong chỉ số Scoring Atopic Dermatitis (SCORAD), Chỉ số Chất lượng Cuộc sống Da liễu (DLQI) sau 4 tuần điều trị. Đánh giá được thực hiện trước khi điều trị, tuần thứ 2 và 4 của điều trị. Kết quả: Sự thay đổi trung bình tổng điểm DLQI khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm ở 4 tuần sau điều trị (p<0,05). Tại T2 và T4, điểm khô da của nhóm nghiên cứu thấp hơn nhóm chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điểm ngứa, mất ngủ của nhóm nghiên cứu thấp hơn nhóm chứng ở T2 và T4, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Sự khác biệt đáng kể giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng ở tuần thứ 2, 4 về DLQI tương ứng. Có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng về sự thay đổi của điểm số VAS (Ngứa), VAS (Mất ngủ), DLQI trước và sau điều trị. Trong thời gian điều trị không ghi nhận tác dụng phụ trên 2 nhóm nghiên cứu. Kết luận: Điều trị cấy chỉ 2 tuần/lần có hiệu quả giảm các triệu chứng khách quan ở bệnh nhân AD nhẹ đến trung bình, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, không có các tác dụng phụ.
#Viêm da cơ địa #điều trị #cấy chỉ #thử nghiệm lâm sàng #SCORAD #DLQI
Nhiễm nấm Malassezia trên da bệnh nhân bị viêm da cơ địa và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2019 - tháng 6/2020
Tạp chí Y học Dự phòng - - 2022
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm mô tả tỷ lệ nhiễm nấm Malassezia trên da bệnh nhân viêm da cơ địa và một số một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2019 đến tháng 6/2020. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 13.142 bệnh nhân viêm da cơ địa. Các bệnh nhân này được làm xét nghiệm soi tươi nấm tìm Malassezia. Kết quả cho thấy trong nhóm đối tượng nghiên cứu có 609 bệnh nhân có nhiễm Malassezia (chiếm 4,6%). Tỷ lệ nhiễm nấm trong nhóm bệnh nhân nam là 4,7% và trong nhóm nữ là 4,5%, không có sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,59). Tỷ lệ nhiễm Malassezia ở bệnh nhân thành thị (4,8%) và nông thôn là (4,6%) không khác biệt (p = 0,66). Về nhóm tuổi, có 6% trẻ em ≤ 2 tuổi, 2,1% trẻ em từ 2 đến 15 tuổi và 5,5% người trên 15 tuổi có nấm Malassezia. Nhóm tuổi từ 2 - 15 có nguy cơ nhiễm nấm thấp hơn nhóm tuổi > 15 tuối (OR = 0,37; 95%CI: 0,29 - 0,48). Mùa xuân và mùa hạ có tỉ lệ nhiễm Malassezia cao hơn so với mùa đông (OR = 1,32; 95%CI: 1,01 - 1,72 và OR = 1,41; 95%CI:1,12 - 1,77). Như vậy, nhiễm Malassezia có thể gặp ở các bệnh nhân viêm da cơ địa. Thông tin về các yếu tố làm tăng nguy cơ nhiễm nấm có thể giúp thầy thuốc lưu ý khi điều trị cho bệnh nhân viêm da cơ địa.
#Viêm da cơ địa #Malassezia #mùa #nhóm tuổi
Tổng số: 55   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6